Tên di sản : Di tích Mật Sơn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Danh lam thắng cảnh
Sô quyết định : Số 4185/QĐ-UBND
Giới thiệu
Núi Kỳ Lân là một núi đá vôi, nổi lên giữa cánh đồng làng Mật Sơn như một bức bình phong thiên nhiên ở phía nam thành phố Thanh Hóa. Núi cao 104m so với mực nước biển, diện tích là 127.344m. Phía tây núi Kỳ Lân giáp kênh đào nhà Lê (thời Lê Hoàn – thế kỉ X). Kề sát núi là hồ và bể chứa nước sinh hoạt của nhà máy nước Thanh Hóa. Về phía đông dưới chân núi là chùa Mật Sơn – nay là xí nghiệp gỗ đường sắt Thanh Hóa. Cách đây không xa là làng Kiều Đại (phường Đông Vệ) – đất của Hoàng tộc nhà Lê. Ở đây còn là nơi an táng của hai vị Hoàng đế: Lê Kính Tông (1599 – 1916) và Lê Anh Tông (1556 – 1573). Gọi chung là Bố Vệ lăng. Ngoài ra còn có Thái Miếu nhà Hậu Lê (nơi thờ các vua nhà Lê), xây dựng từ thời vua Gia Long năm thứ tư (1805). Phía tây là làng Mật Sơn và cánh đồng Nhuệ Thôn. Về phía nam giáp xã Quảng Thắng.
Trải qua nhiều thế kỉ, cảnh quan thiên nhiên, địa hình xưa ở vùng này có nhiều đổi thay. Diện mạo của Kỳ Lân vẫn giữ được những vẻ đẹp vốn có của nó. Đứng trên đỉnh núi Kỳ Lân, thành phố Thanh Hóa như được thu nhỏ lại trước mắt.
Khảo sát quanh núi, số lượng các hang động không nhiều, hầu hết các hang động không có thạch nhũ. Song, đáng kể ở đây là động thủy cung. Hang sâu trong lòng núi, vòm hang rộng. Trong hang có nhiều mạch nước ngầm nhỏ tạo thành những vụng nước trong suốt – nhân dân địa phương ví nó như động của các nàng tiên ở thủy cung. Ngoài ra, còn có động Bụt Bó – là nơi thờ sơn thần thổ địa. Du ngoạn trên núi Kỳ Lân, điều lý thú là được nghỉ ngơi trên các tảng đá bằng phẳng với nhiều hình thù khác nhau rất lạ mắt. Có tảng đá như bàn cờ, nhân dân địa phương lâu nay vẫn gọi là “bàn cờ tiên”, “bàn cờ vua” tương truyền các vua Lê mỗi lần đi chơi trên núi Kỳ Lân đều đến đó đánh cờ,…
Chùa Đại Bi:
Chùa Đại Bi dựng theo hướng tây nam trên một vùng đất bằng phẳng, rộng lớn dưới kề chân núi Kỳ Lân. Sử sách xưa đều thống nhất chép rằng: “chùa Đại Bi do vua Lê Thần Tông lên núi chơi, sai dựng chùa ở cạnh núi (Đại Nam nhất thống chí). Như vậy, thời gian xây dựng chùa vào giữa thế kỉ XVII (tức là trong khoảng thời gian Lê Thần Tông ở ngôi Hoàng đế hai lần: 1619 – 1643 và 1649 – 1662). Tiếc rằng những tài liệu ghi chép về việc xây dựng chùa đến nay không còn.
Về quy mô kiến trúc: Theo Le Breton thì chùa gồm 4 gian. Theo các cụ cao niên làng Mật Sơn thuật lại như sau: chùa Mật Sơn là một ngôi chùa lớn nhất ở huyện Đông Sơn lúc bấy giờ. Bao gồm: chùa chính kiến trúc hình chữ Đinh (tiền đường 5 gian – chính điện 3 gian). Hai nhà dải vũ (tả vũ – hữu vũ) mỗi nhà có 5 gian. Sân chùa rộng bài trí các loại giống đá như: voi, ngựa, chó đá,… và các tấm bia. Cổng vào chùa là một Tam quan 3 tầng lộng lẫy. Trên tầng 3 Tam quan treo một chiếc chuông đồng nặng hơn 2 tạ. Ngoài Tam quan có “giếng Tiên” nước trong suốt tận đáy giếng. Xung quanh chùa tường xây bao bọc, cây cối xum xuê um tùm.
Về nội thất: có tới hàng trăm pho tượng Phật, trong đó có tượng của vua Lê Thần Tông và các bà phi. Các đồ thờ tự nhiều vô kể, được trang hoàng lộng lẫy.
Chùa Mật Sơn đã bị phá hủy. Đến năm 1965, thay vào đó, xí nghiệp gỗ đường sắt Thanh Hóa dựng trên toàn bộ đất của chùa Mật Sơn với diện tích 54572 m2. Tuy nhiên, chùa mất nhưng nền vẫn còn, tượng phật bị phá hủy nhưng tượng vua Lê Thần Tông và bà Hoàng phi vẫn còn nguyên vẹn như xưa. Bên cạnh đó, giếng Tiên – một công trình nghệ thuật điêu khắc đá được nhân dân địa phương bảo quản.
Về tượng vua Lê Thần Tông được tạc bằng gỗ theo tỷ lệ 1/1. Khuôn mặt trái xoan, đôn hậu nhưng cương nghị. Da mặt ngăm ngăm đen, y phục theo nghi lễ thiết triều (không có đai vàng). Hai tay nắm vòng trước bụng được che khuất bởi hai ống tay áo rộng. Tượng ngồi trên bệ sen với 3 lớp cánh hoa sen. Bệ sen được tạo dáng như ngai vàng của Hoàng đế.
Về nhóm tượng của 6 Hoàng phi: hầu hết các tượng này không đặt trên bệ hoa sen. Đầu đội mũ vương miện của Hoàng hậu, tư thế tọa thiền, y phục một người một vẻ, mang bản sắc dân tộc. Điều dễ nhận thấy là y phục của các Hoàng hậu và Hoàng phi hoàn toàn khác với y phục của giới phật pháp. Chính vì vậy, việc đoán Hoàng hậu hay Hoàng phi là người nước nào cũng không đến nỗi khó khăn.
Khi chùa bị phá, các tượng trên được đưa về bảo quản tại kho Bảo tàng Thanh Hóa. Hiện nay, các pho tượng trên tạm thời bài trí trong nhà tiền đường của Thái Miếu nhà Lê.
Giếng Tiên: có thể nói giếng tiên chùa Mật Sơn là một công trình nghệ thuật điêu khắc đá thế kỉ XVII. Việc xây dựng công trình này là lý do duy nhất để dân làng Nhuệ “kết chạ” với dân làng Mật. Mối quan hệ đó vẫn được duy trì bền chặt đến ngày nay.
Đường kính giếng rộng 1,55m, thành giếng được xây bằng đá phiến ghè đẽo công phu theo độ cong của giếng. Với đường kính rộng 1,55m phải làm tới 12 phiến đá mới khép kín (mỗi phiến đá dày 0,3m, rộng trung bình 0,4m). Đáy giếng được lát 1 lớp đá phiến, mỗi tảng đá đều chạm nổi hình tôm, cua, cá. Nước giếng trong nhìn tận đáy. Có thể nói đáy giếng tiên như một “thủy cung” của các loài tôm, cua, cá.